Điện ảnh có thể là nguồn cảm hứng cho các nhiếp ảnh gia. Khi nhắc tới film, thông thường chúng ta sẽ nhớ tới diễn viên và đạo diễn chứ ít chú ý đến đạo diễn hình ảnh(DOP-Director of Photography). Nói một cách dễ hiểu, DOP là người phụ trách về ánh sáng, khung hình và chuyển động(flow) cho những shot quay, đóng vai trò quyết định tới chất lượng của những video clip. Cùng Chimkudo Academy điểm qua 06 DOP nổi tiếng mà chúng ta không thể không biết nhé.
JOHN ALCOTT
Mặc dù sự nghiệp ngắn ngủi nhưng tác phẩm của ông có ảnh hưởng lớn đến lịch sử điện ảnh.
Kể từ phim 2001: A Space Odyssey , khi phải đảm nhiệm vị trí đạo diễn hình ảnh, ông đã cộng tác trong nhiều phim lớn của Kubrick, Clockwork Orange hay The Shining . John Alcott đã phát triển một cách làm phim mang tính cách mạng, cùng với sự ảnh hưởng từ Kubrick đã dần dần định hình phong cách của John.
John Alcott đã vận dụng thuần thục những gì học được trong sự nghiệp quảng cáo của mình: như sử dụng các tấm diffuser hay các practical lights(các nguồn sáng trong thực tế như đèn bàn, tv, đèn bếp….mặc dù yếu nhưng nó giúp tạo ra không khí cinematic trong khung hình)
Trong phim 2001, John Alcott chủ yếu sử dụng bounced light để Kubrick có thể quay được film từ mọi góc máy. Ngay cả với một người cầu toàn và thích kiểm soát như Kubrick, Alcott vẫn tìm ra cách sử dụng các kỹ thuật của riêng mình. Rải nước trên đường phố để thắp sáng ánh đèn thành phố là một trong số đó.
Ngay cả bây giờ, khi chúng ta luôn ca ngợi sự kì diệu của công nghệ chịu noise trên các máy ảnh, máy quay thì những tips tricks như vậy vẫn luôn hữu dụng.
ROGER DEAKINS
Roger có thể là một trong những đạo diễn hình ảnh nổi tiếng nhất. Sở thích vẽ tranh ban đầu của anh ấy có lẽ đã ảnh hưởng lớn đến công việc sau này, khi cộng tác với các đạo diễn nổi tiếng như Sam Mendes, Martin Scorcese hoặc Anh em nhà Cohen. No Country for Old Men , Skyfall , Blade Runner 2049 hoặc gần đây hơn là 1917 thể hiện cả tính linh hoạt và phong cách của Roger, đặc trưng bởi sự đơn giản, tinh tế và việc sử dụng thuần thục ánh sáng tự nhiên.
Khi quyết định sử dụng ánh sáng, Roger hay có thói quen để những đối tượng ít quan trọng vào những vùng tối của khung hình, chừa lại những chi tiết quan trọng cho những vùng highlight. Để đạt được điều đó, Roger thường sử dụng ba nguồn sáng và áp dụng các góc quay khá “dị” để truyền tải tâm trạng của các nhân vật.
Hai điều khác để học hỏi từ Roger: niềm tin của anh ấy vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng và cách Roger cống hiến tâm huyết của mình vào bất cứ dự án nào, dù to hay nhỏ, anh ấy đều làm với hết khả năng của mình.
CHRISTOPHER DOYLES
Bạn sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng Christopher đã chuyển đến Đài Loan ở tuổi đôi mươi và thậm chí còn học tiếng Quan Thoại. Christopher đã được biết tới rộng rãi hơn qua vị trí DOP trong phum In the Mood for Love và 2046 của Vương Gia Vệ .
Sở thích về nhiều loại hình nghệ thuật của Chris có thể nhìn thấy trong bộ phim mà anh tham gia. Ví dụ như vẽ digital và cắt giấy của anh ấy đã được thể hiện trong bố cục và màu sắc của những khung hình. Là một người làm sáng tạo, Chris cảm thấy rằng mình cũng có trách nhiệm nói lên thế giới quan của mình và hiện thực hóa nó theo một cách độc đáo.
Chris có nhiều cách tiếp cận theo bản năng hơn là kỹ thuật và theo trực giác dòng chảy nghệ thuật của mình, Được nuôi dưỡng bởi nền văn hóa giao thoa Á Âu, đối với Chris, bằng tư duy cởi mở, bất kỳ trải nghiệm sống mới nào cũng là một cách để nuôi dưỡng câu chuyện thẩm mỹ của Chris. Là một người làm sáng tạo, nếu bản thân chúng ta không phải là những con người với những trải nghiệm phong phú thì không thể nào truyền tải được những điều thú vị, sinh động vào trong những tác phẩm của mình.
JANUSZ KAMINSKI
Một cái tên thường gắn liền với một người nổi tiếng khác: Steven Spielberg. Họ đã làm việc cùng nhau từ năm 1993 trong bộ phim nổi tiếng Schindler’s List .
Có một gout nghệ thuật khá khác biệt, Janusz giúp hiện thực hoá mục tiêu của Spielberg trong Tell a story. Và để đạt được điều đó, Janusz chỉ sử dụng những kĩ thuật hình ảnh rất truyền thống, trong đó các phối cảnh và hiệu ứng máy ảnh truyền đạt ý tưởng và giúp người xem nắm bắt được tâm trạng cũng như khái niệm của khung hình.
Việc sử dụng phim 35mm đã góp nhiều vào trong công việc phim ảnh, có thể là Kodak 320T cho Catch Me If You Can hoặc 200T cho Binh nhì Ryan .
Một đặc điểm dễ nhận biết khác trong hình ảnh của Kamiński thường có một lớp sương mù nhẹ(haze), kết hợp với các nguồn sáng từ đèn background, tạo ra bầu không khí gần với vẻ tự nhiên mà anh ấy theo đuổi.
EMMANUEL LUBEZKI
Ba bộ phim, trong số nhiều những bộ phim khác đã thể hiện tài năng hình ảnh của Lubezki: Children of Men , Birdman và The Tree of Life .
Mặc dù rất khác nhau, nhưng các bộ phim đều thể hiện một số đặc điểm chung về phong cách của Lubezki. Các shot quay của Lubezki thường là các shot handheld, nhưng chuyển động của nó uyển chuyển hơn so với kiểu phóng sựtruyền thống và thời gian quay cũng lâu hơn. Các cảnh quay được bám theo sự phát triển về tâm lý của nhân vật một cách “rất tự nhiên và sạch”, như Lubezki từng nói.
Về ánh sáng, Lubezki thường sử dụng ánh sáng mặt trời và điều tiết nó để phù hợp với câu chuyện của bộ phim. Khi làm việc với ánh sáng mặt trời, điều quan trọng nhất đó là sự chuẩn bị kĩ càng, tính toán giờ mọc/lặn, thời tiết và vị trí đứng quan sát…. Từ đó có sự chuẩn bị và căn chỉnh phù hợp để tạo ra những cảnh quay với ánh sáng đẹp.
Chất lượng và màu sắc của ánh sáng cũng góp phần tạo nên tâm trạng của một cảnh quay, cho dù đó là ánh sáng gắt, sắc nét như trong Gravity hay ánh sáng soft, êm dịu cuối ngày như trong Children of Men hay The Revenant .
ROBERT RICHARDSON
Những tác phẩm như Trung đội , JFK , Shutter Island , Kill Bill của Robert đã góp phần tạo nên những cột mốc hình ảnh đáng nhớ trong sự nghiệp của anh.
Với yêu cầu của vị trí đạo diễn hình ảnh, Richardson cố gắng kết hợp nghệ thuật của mình với tầm nhìn của đạo diễn phim.
Tuy nhiên, Robert đã sử dụng một số những thủ thuật mà anh góp nhặt được trong quãng thời gian làm quảng cáo trong rất nhiều các bộ phim khác nhau. Một số điển hình như cách sử dụng ánh sáng ven hoặc quầng sáng (gradient) phía sau các đối tượng với các practical lights được bố trí hợp lý phản chiếu khuôn mặt của đối tượng là một trong số đó.
Kĩ thuật này đã trở thành một phần trong phương pháp suy nghĩ của anh ấy, tùy thuộc vào vị trí đặt máy ảnh, nơi có ánh sáng và cách mà ánh sáng phản chiếu trở lại ống kính.
Các ống kính và bố cục khung hình cũng được sử dụng chính xác trong những shot quay journalism. Robert thường xử dụng các lenses góc rộng để kéo người xem vào bối cảnh của khung hình, đồng thời diễn tả không gian rộng rãi ở xung quanh một cách hợp lý.
Kết luận
Một nhiếp ảnh gia làm nghề chuyên nghiệp làm việc độc lập là đạo diễn hình của chính mình. Ngay cả khi nằm trong mộg team, sự hiểu biết về cách thức xử lý ánh sáng cũng như bố cục khung hình trong nhiếp ảnh cũng sẽ được sử dụng hiệu quả trong các khung hình phim, video.