Sau khi nghỉ làm công việc xã hội, trong hơn 20 năm qua, bà Louise đã theo đuổi sự nghiệp thứ hai, là một nghệ sĩ và giáo viên nghệ thuật. Trong thời gian này, bà bị bệnh Parkinson không điển hình (thứ phát), một chứng bệnh của hệ thần kinh trung ương, với các biểu hiện như cứng đơ, cử động chậm chạp và đi lại khó khăn. Tôi được giới thiệu gặp bà vào năm 2020. Tôi là một nhà thần kinh học và là chuyên gia riêng của bà ấy về rối loạn vận động, sau khi bà biết tôi có hứng thú với nghệ thuật và não bộ. Hy vọng rằng tôi có thể mô tả rõ hơn tình trạng của Louise ảnh hưởng đến cảm giác thẩm mỹ của bà ấy như thế nào, cụ thể là sức khoẻ tâm thần sẽ ảnh hưởng thế nào đến sự sáng tạo của một người nghệ sĩ.
Trong lần gặp Louise gần đây, bà ấy nhìn chằm chằm vào bức ảnh và nói với tôi, “Khung cảnh ấy trông rất lạ”.
“Bà có thể nói ra được không?” – Tôi hỏi bà ấy.
Louise đảo mắt quanh bức tranh: “Có một người đàn ông nhỏ ở phía bên trái. Anh ấy đang nhìn vào một cửa sổ ở giữa phòng”.
“Bà có thấy điều gì bất thường về bức ảnh này không?”
“Tôi không chắc, tiến sĩ Stanley ạ. Chắc phải có thì anh mới hỏi vậy”.
Tôi quay sang hỏi chồng của bà Louise: “Còn ông thấy sao, David?”
“Có một chiếc Volkswagen Beetle treo lơ lửng trên trần nhà và một cậu bé đang nhìn qua kính chắn gió. Đó là một căn phòng lộn ngược. “
“Tôi đoán vậy,” Louise tiếp lời. Bà trả lời với vẻ thất vọng, giọng trầm xuống.
Bệnh Parkinson không chỉ ảnh hưởng xấu đến việc di chuyển của bà Louise. Trong vài năm qua, bà đã bị chứng mất trí nhớ, một sự suy giảm dần về nhận thức ảnh hưởng đến suy nghĩ, tâm trạng và hành vi. May mắn là khả năng ngôn ngữ và trí nhớ của bà (ở một mức độ nhất định) vẫn còn khá ổn. Trong vài năm qua, bà phải đấu tranh với sự suy giảm khả năng thị giác và cảm nhận không gian, cũng như khả năng tự kiểm soát và giải quyết vấn đề. Bà ấy vẫn có thể xác định các hình dạng cơ bản, bóng đen silhouette của động vật, các biển báo trên đường mà tôi đã chỉ cho bà ấy, và thậm chí còn nhận ra một phiên bản của Mona Lisa với khuôn mặt bị đảo ngược. Tuy nhiên, một số từ bị gạch ngang thì bà không hiểu được. Bà ấy nhìn hình vẽ bàn tay với hình xoắn ốc chồng lên nhau thành một con ốc sên. Louise không nhìn ra được những hình ảnh bị vẽ đè một mớ hỗn độn các chi tiết không liên quan.
Tôi ngày càng tò mò về mối quan hệ giữa sự suy giảm nhận thức ngày càng tăng và ý chí sáng tạo dường như không bao giờ suy tàn của bà. Friedrich Nietzsche đã viết rằng, nghệ thuật tốt là một dạng “khiêu vũ với xiềng xích” – mô tả những hạn chế và giới hạn (thường do bản thân hoặc xã hội áp đặt) dẫn đến những cách giải quyết và thúc đẩy sự sáng tạo. Khi theo dõi nghệ thuật và bộ não của Louise thay đổi như thế nào theo thời gian, tôi hy vọng sẽ thể hiện được vai trò của yếu tố.
Bà Louise bắt đầu làm nghệ thuật cách đây hơn 20 năm, khi đã ngoài 40 tuổi. Bà đã mua một cuốn sách tại một cửa hàng ở Boston, Drawing on the Right Side of the Brain (1979) của Betty Edwards. Mặc dù chưa bao giờ vẽ, nhưng khi bà cầm bút lên, bà biết mình sẽ trở thành một nghệ sĩ/hoạ sĩ.
Bài tập ban đầu là vẽ lại bức chân dung Igor Stravinsky của Picasso, nhưng theo chiều ngược lại. Việc vẽ đảo ngược làm cho nó dễ dàng hơn. Việc vẽ một bức tranh nổi tiếng từ một góc nhìn hiếm thấy sẽ thúc đẩy hệ thống chú ý của não phải tập trung vào các hình dạng và đường nét tạo nên bức tranh đó – hơn là bản thân bức tranh đó vẽ ai và các chi tiết của nó, một mối bận tâm của bán cầu trái. Đó là một phiên bản của câu châm ngôn trong trường học nghệ thuật: vẽ những gì bạn thấy, không phải những gì bạn biết rõ là cần vẽ. Mặc dù vậy, hai điều này rất khó tách biệt, vì kỳ vọng “vẽ từ trên xuống” của não sẽ ảnh hưởng đến những kích thích thực tế là phải “vẽ từ dưới lên”.
Bà Louise đã luyện tập và thật ngạc nhiên, bức tranh trông giống Stravinsky. Niềm vui của bà khi sao chép bức chân dung không chỉ nằm ở bản thân tác phẩm mà còn ở hành động sáng tạo. Hầu hết chúng ta chỉ trải nghiệm niềm vui của nghệ thuật khi ta đánh giá cao nó; tâm trí của chúng ta tập hợp lại khung cảnh trước mắt, liên kết nó với quá khứ của chúng ta và tập trung vào tâm trạng của mình trong khoảnh khắc đó. Bà Louise tìm thấy niềm vui khi cảm nhận bản thân như một nghệ sĩ, tạo ra thứ gì đó thu hút thị giác của người xem, để cô ấy và những người khác sẽ có phản ứng với nó. Cô ấy sẽ trở thành một người sáng tạo, chứ không chỉ là một người quan sát, ngắm nhìn bức tranh.
Chẳng bao lâu, sự thôi thúc thể hiện đã đưa bà đến với hội họa trừu tượng. Tranh sơn dầu hấp dẫn cả về mặt thẩm mỹ và cảm giác có texture của chúng. Cô ấy sử dụng màu đậm trên những tấm bạt lớn, cố gắng khám phá sự gắn kết với không gian xung quanh, để người xem có thể hình dung ra nó (có thể là góc phố, cái bàn…), nhưng đó có thực sự là một góc phố hay không? Vẻ đẹp là trong mắt người xem còn hơn cả vẻ đẹp của bản thân bức tranh. Người nghệ sĩ cho chúng ta bối cảnh để xem và kiểm soát những gì chúng ta nhìn thấy, nhưng những gì chúng ta thấy là một quá trình tri giác xảy ra trong bộ não, chứ không phải trên bức vẽ.
Lượng dopamine quá ít có thể khiến cơ thể và suy nghĩ kém linh hoạt, thờ ơ và trầm cảm
Cuối cùng, bà Louise đăng ký học tại một viện nghệ thuật ở New England. Ban đầu, bà có thể vẽ cả ngày mà không cần nghỉ ngơi hay ăn gì, nhưng trong năm đầu tiên khi chính thức học nghệ thuật, bà cần nghỉ ngơi nhiều hơn. Có ngày bà ấy không thể làm việc dù chỉ một giờ, và cần thời gian nghỉ ngơi để bản thân hồi phục. Trước kia, bà Louise thường gặp những cơn đột quỵ chớp nhoáng. Nhưng trong thời gian ấy, chúng trở nên nặng hơn. Cảm giác mới này như một sự cản trở đối với hoạt động vẽ tranh của bà. Để giải quyết điều này, bà đã chuyển từ những bức tranh trừu tượng lớn sang vẽ các đường con lớn và mô tả siêu thực (hyper-realistic), sử dụng những nét vẽ nhỏ. Bộ sưu tập này có tựa đề là Coming Apart.
Hội hoạ không vấn đề duy nhất mà bà Louise phải vượt qua. Tay chân bà kém linh hoạt hơn, bà không tự tin ngay cả khi đứng trên mặt đất. Đôi khi bà cảm thấy bất động trên sàn. Sau khi tìm đến bác sĩ thần kinh, bà được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson không điển hình. Parkinsonism là một thuật ngữ chung, một hội chứng gồm nhiều đặc điểm; nguyên nhân của nó có thể do thuốc, nhiễm trùng, đột quỵ và các tình trạng thoái hóa, gần giống bệnh Parkinson điển hình hơn. Tất cả các dạng Parkinsonism đều do thiếu hụt hoặc tắc nghẽn chất dẫn truyền thần kinh dopamine trong vùng hạch cơ bản của não – bộ phận giúp dừng các chuyển động hoặc bắt đầu chúng ngay tức khắc. Dopamine cũng điều chỉnh một số mạng lưới thần kinh được chuyển tiếp qua các hạch cơ bản và hơn thế – những mạng lưới này tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyển động, nhưng cũng ảnh hưởng đến tâm trạng và tín hiệu khen thưởng. Quá nhiều dopamine có thể dẫn đến các cử động phụ và không tự chủ (rối loạn vận động) cũng như các hành vi gây nghiện và cưỡng chế, thậm chí là rối loạn tâm thần. Quá ít có thể khiến cơ thể và suy nghĩ kém linh hoạt, rơi vào trạng thái thờ ơ và trầm cảm.
Khi bà Louise bắt đầu dùng chất bổ sung dopamine có tên là carbidopa-levodopa (Sinemet), bà đã lấy lại được sự khéo léo và thể lực đủ để thực hiện các tác phẩm. Phần levodopa của loại thuốc kết hợp này được chuyển đổi thành dopamine, trong khi carbidopa giúp ngăn chặn nó phân hủy trước khi đến não. Được hỗ trợ bởi chất tăng cường dopamine này, bà Louise bắt đầu tạo ra các tác phẩm trừu tượng phức tạp hơn, lớn hơn, khám phá nhiều hơn về màu sắc, hình dạng và đường nét. Các tác phẩm được triển lãm của bà bán rất chạy, thậm chí còn trở thành backdrop trong các bộ phim. Và bà đã có được sự tự tin để dạy nghệ thuật trong các chương trình giáo dục cho người lớn.
Louise tiếp tục vẽ để làm hài lòng bản thân cho đến năm 2011, khoảng chín năm kể từ lần chẩn đoán ban đầu. Bà vẽ về cả người và động vật (với một niềm yêu thích đặc biệt dành cho chó). Hiện tại, bà chọn đi theo hội hoạ trừu tượng. Có thể thấy trên những tấm vải canvas của bà thường xuyên xuất hiện không khí của phong cảnh hoặc tĩnh vật -. Bà cũng vẽ trên các tấm polyme, chất liệu mà bà dần thích hơn.
Khi bệnh Parkinson ngày càng xấu đi, bà Louise đã dùng Sinemet tới 9 lần một ngày để vẽ trong 5 giờ và có một cuộc sống năng động. Ngoài các chất kích thích dopamine trực tiếp, bà còn dùng các loại thuốc gần giống như dopamine và làm dịu các giai đoạn khi Sinemet vô tác dụng. Nhưng chất kích thích dopamine thường gây ra các tác dụng phụ lên tâm trạng và hành vi – đặc biệt là các hành vi gây nghiện và kích dục. Khi liều lượng tăng lên, bà phải vật lộn với việc kiểm soát bản thân: gọi điện cho những người thân ngay khi ý tưởng ập đến, hoặc dán mắt vào màn hình máy tính hàng giờ liền. Đến năm 2015, bà ấy bắt đầu biểu hiện các triệu chứng về nhận thức mà không thể giải thích được, do tác dụng phụ của Sinemet. Bà Louise đã đâm xe liên tục, và chồng bà là David nhận thấy rằng bà đã lái xe rất gần những chiếc xe khác. Việc mất khả năng cảm nhận không gian là do chuyển động chậm và thời gian phản ứng kém. Bà bắt đầu bị mất trí nhớ ngắn hạn – nhưng ở độ tuổi 60, đây là điều có thể hiểu được trong quá trình lão hoá.
Sau đó bà Louise bắt đầu gặp ảo ảnh. Một ngày nọ, bà nói với chồng rằng bà sợ hãi khi thấy một người đàn ông lạ im lặng ngồi trong phòng khách. Anh ta chỉ ngồi đó và không bao giờ trả lời câu hỏi của bà về việc anh ta là ai hay đang làm gì. Cuối cùng, bà cố gắng hết sức để bước tới và tiếp cận với anh ta. Chỉ khi những ngón tay sờ thấy lớp vải áo khoác vắt qua ghế, bà mới nhận ra khả năng nhìn đã đánh lừa bà.
Dần dần sự việc này trở nên phổ biến hơn. Những nếp gấp của chiếc gối trông như một khuôn mặt, một đống quần áo biến thành một con chó kỳ lạ, và giá treo quần áo trông giống như những kẻ đột nhập. Louise không chỉ nhìn nhầm các đồ vật: cô ấy bắt đầu nhận nhầm người, tưởng những người lạ là quen thuộc, và thấy gia đình mình rất giống ai đó mà bà không nhớ.
Nếu những người khác có thể nhìn thấy những gì Louise thấy, thì có lẽ bà ấy đã không đơn độc trong thế giới của mình
Điều trớ trêu là ảo ảnh lại là một điểm quan trọng trong nghệ thuật tượng hình (figurative art) mà Louise đã vẽ trong nhiều năm. Để “nhìn thấy” một bức chân dung của Stravinsky, chúng ta phải nhìn các nét vẽ trên tranh gốc theo một hướng khác – rút ra các suy luận về hình dạng và màu sắc, cho phép các đốm màu sơn kết dính lại thành các dạng xác định. Những mảng màu và đường kẻ này trở nên liên kết với nhau thành những đốm và vệt sáng, điều này che giấu lý do đằng sau nó. Các nhà khoa học thần kinh David Milner và Melvyn Goodale đã giúp củng cố hiểu biết của chúng ta về các mạng lưới “cái gì” và “ở đâu” trong não vào những năm 1990. Tuy nhiên thú vị là nhà sử học nghệ thuật Ernst Gombrich đã đưa ra sự khác biệt tương tự về “cái gì/ở đâu” trong The Sense of Order (1979). Chúng ta không thể nhìn thấy một sắc mặt nếu không nhận biết được giá trị cảm xúc của sắc mặt đó. Chúng ta bắt đầu đoán lý do tại sao khuôn mặt đó trông đau đớn, tức giận, buồn bã; và nếu một nhân vật chỉ vào chỗ khác trong bức tranh, mắt chúng ta sẽ nhìn theo hướng đó.
Quan điểm này không phải là một hành động thụ động. Đó là một quá trình phức tạp nhằm tập trung, sàng lọc và điều chỉnh những kích thích giác quan có sẵn vào thực tế mà bộ não của chúng ta mong đợi. Các giác quan như thị giác và thính giác có thể bị tách biệt tại các điểm chạm, nhưng tâm trí của chúng ta kết hợp các yếu tố đầu vào này để tạo ra một mô hình – một ảo ảnh hoạt động – để giải thích điều gì đang xảy ra. Kết quả là, nhận thức của chúng ta dễ dàng điều chỉnh hiện tại với những gì chúng ta mong đợi về nó. Con linh dương mong muốn nhìn thấy lớp cỏ cao, vì thế chúng bỏ qua con sư tử cái đang nguỵ trang trong lớp cỏ. Chỉ đến khi một thứ gì đó đạt đến ngưỡng nhất định về khả năng cảm nhận – cỏ dài không có mùi giống sư tử, không di chuyển theo chiều gió – thì tính toàn vẹn của ảo ảnh mới được thử thách và xem xét lại.
Những ảo ảnh như vậy không chỉ để điều hướng các bức bích họa, mà còn cho phép chúng ta điều hướng thực tế trong cuộc sống hàng ngày của mình. Khi các phần của quá trình xử lý xấu đi, những gì còn lại sẽ không phù hợp để tạo nên ý nghĩa của cuộc sống hàng ngày. Nó có thể không “đúng” nhưng nó vẫn sẽ cố gắng gắn kết với nhau. Giờ bà Louise đã hiểu sai những kích thích mà trước đây bà ấy vốn có thể loại bỏ khỏi cuộc sống, chẳng hạn như nếp nhăn của vải hoặc bóng đổ trên tường. Việc bà ấy chấp nhận sự tồn tại của những khuôn mặt thay vì những vật thể vô tri vô giác (được gọi là pareidolia) là một việc đi ngược lại với những gì đang tồn tại trên đời. Để đối phó với chúng, bà Louise sớm học cách sống với những ấn tượng của mình bằng cách miêu tả chúng. Các nhà sử học nghệ thuật như Gombrich bị ảnh hưởng bởi các nhà tâm lý học tri giác như J J Gibson và Ulric Neisser, những người đã đề xuất một chu kỳ tri giác, nơi chúng ta nhìn thấy để hành động theo những gì chúng ta thấy. Ở đây, cuộc đời của Louise và nghệ thuật của cô ấy đóng vai trò là mối liên kết sống động giữa Gombrich tiếp cận nhận thức từ khía cạnh nghệ thuật – lịch sử và Neisser tiếp cận nhận thức từ góc độ tâm lý.
Trước sự suy sụp của Louise, bà và chồng quyết định nắm bắt thực tại của bà theo hướng tốt nhất có thể. David đã lắng nghe những mô tả của vợ, và phát triển một loạt các tác phẩm thể hiện sự biến đổi kỳ lạ của môi trường xung quanh bà thành người và động vật. Nếu những người khác có thể nhìn thấy những gì bà ấy đã thấy, thì có lẽ bà đã không đơn độc như vậy trong thế giới của mình.
Louise đến khám lâm sàng với bác sĩ thần kinh của bà – người đã giới thiệu bà ấy với tôi. Bà sẽ đến mà không mang theo Sinemet, để họ có thể nhìn thấy bà trong tình trạng tồi tệ nhất – cánh tay cứng nhắc, dáng đi bất ổn, và khuôn mặt u uất. Sau đó, bà ấy sẽ dùng Sinemet và trong vài phút, vẻ mặt của bà tươi sáng trở lại, tay chân như thể được giải phóng khỏi những bao cát vô hình. Tuy nhiên, dùng quá nhiều Sinemet sẽ khiến bà không kiểm soát được chứng rối loạn vận động.
Đồng thời với lúc ảo ảnh bắt đầu tìm đến bà, Louise bắt đầu nghe thấy thứ âm nhạc mà không ai khác có thể nghe được, và bà vẫn nghe. Đó là một máy hát tự động phát các giai điệu giống nhau lặp đi lặp lại, do tâm trí cô ấy tự sáng tác, chúng xảy ra trong nhiều giờ. Nó đã từng khiến bà ấy khó chịu khi cứ lặng lẽ đến và lặng lẽ biến mất, nhưng giờ thì dường như bà được giải trí với những âm điệu kì lạ này.
Thời điểm ảo giác ập đến, Louise đột ngột rời khỏi hội họa trừu tượng và chuyển sang chủ đề tĩnh vật – điều mà bà đã không làm trong nhiều năm. Đây có thể là cuộc sống “tĩnh”, nhưng chắc chắn không phải là cuộc sống thực. Trong khi cây cối, ngọn đèn, trái cây và cái bát có đổ bóng thì 2 con cá chìm nghỉm bên dưới. Trong series The Games Fish Play của bà, cá bơi vào một bàn ăn trong phòng hay ngược lại? Mọi thứ đang mất phương hướng.
Cứ vẽ rồi vẽ lại. Đôi khi chỉ có sự kiệt sức mới ngăn bà lại
Mất phương hướng và vấn đề về nhận thức lúc nào cũng hiện hữu trong cuộc sống của bà Louise. Bà ấy ngày càng gặp khó khăn trong việc chú ý, giữ trật tự và giữ vững định hướng. Tuy nhiên, những nhận thức khác như ngôn ngữ, trí nhớ và nhận thức về bản thân vẫn còn tương đối. Có nghĩa là bà ấy nhận thức được khá rõ ràng rằng mình đang mất dần đi nhiều khả năng. Khi gần đến lúc cần dùng liều Sinemet tiếp theo, sự lo lắng đã chiếm lấy bà: nếu chậm trễ, bà sẽ sớm rơi vào trạng thái trầm cảm và chuyển sang căng thẳng, chậm chạp như trước đây. Sau khi dùng Sinemet, chứng trầm cảm sẽ thuyên giảm và Louise sẽ vui vẻ trở lại, hoặc ít nhất là hạnh phúc hơn trước. Khi ấy, bà trở lại con người cũ của mình.
Ngay từ đầu, phong cách của bà rất phóng túng, ngóng chờ những sự cố mang đến các hình dáng hoặc màu sắc mới. Giống như nhiều nghệ sĩ khác, Louise thích khám phá các texture khác nhau và các hiệu ứng bất ngờ. Tuy nhiên, khi bệnh Parkinson chuyển biến xấu, bà không thể cầm cọ vẽ được nữa, chuyển sang dùng dao phết màu. Việc lựa chọn phong cách không phải lúc nào cũng là có chủ ý. Điều đó có quá khác biệt so với các nghệ sĩ khác? Các hình thức và phong cách mới phần nào bắt nguồn từ sự thay đổi của phương tiện, công nghệ, hoặc thậm chí khắc phục được những khiếm khuyết của nó. Trong trường hợp của Louise, đó là sự thay đổi tư duy, chứ không phải vật chất đã mang lại sự thay đổi trong phong cách của bà ấy. Thể lực, dù là chuyển động hay cảm xúc, đều bị ảnh hưởng bởi các bệnh về hạch nền, và ông David đã cẩn thận theo dõi những vệt phết màu bằng dao của bà. Dù vậy, việc chuyển sang dùng dao phết màu không có nghĩa là kỹ thuật của bà ấy đi xuống, mà là sự tiến bộ trong thẩm mỹ tinh khiết của bà. Dù vô tình hay không, Louise thích tác phẩm và những yếu tố mới mà dao phết màu mang lại, học cách tận dụng nó trong các tác phẩm của mình.
Một trong những trách nhiệm chính của nghệ sĩ khi sáng tạo là biết khi nào tác phẩm được hoàn thành. Nhiều công trình đã thất bại do họ làm việc quá sức. Trước đây, nếu có thể, bà Louise sẽ vui vẻ vẽ hàng giờ đồng hồ, nhưng với những dự án khác nhau, khi một dự án hoàn thành, bà sẽ gạt nó sang một bên để bắt đầu một thứ khác. Nhưng bây giờ bà vẫn kiên trì với một công việc duy nhất, làm việc quá sức trong nhiều giờ cho đến khi nhận ra đáng lẽ mình nên dừng lại, trong nhận thức muộn màng. Một vài lần, trợ lý studio của cô và David đã phải gỡ bỏ một bức tranh để cô không làm hỏng nó bằng cách tiếp tục vẽ. Đó là một sự bắt buộc để sơn và sơn lại. Đôi khi chỉ có sức cùng lực kiệt mới ngăn cô lại.
Vào năm 2017, ngoài các tác phẩm trừu tượng, bà đã tìm ra nguồn cảm hứng với hình tượng con người trong series có tên The Girls. Bà chưa bao giờ gặp những cô gái này. Họ cũng không phải là ảo giác của bà. Bà ghi chú cho tác phẩm cuối cùng trong series rằng “Am I My Mother”. Điều này gợi ý về cuộc đấu tranh của chính mẹ bà ấy với chứng mất trí nhớ, nhưng chủ yếu tập trung vào vai trò của trí tưởng tượng trong việc cứu chúng ta khỏi sự cô lập, và cho phép chúng ta thực hiện những vai trò mà chúng ta không được chọn:
Lớn lên là con một tại thành phố New York, tôi ý thức được rằng mình sẽ không bao giờ biết cảm giác có anh chị em là như thế nào. Tôi đã trải qua thời thơ ấu cô đơn của mình và tưởng tượng ra những người bạn cùng chơi với mình… Họ luôn là những cô gái. Những tưởng tượng về tuổi thơ của tôi ngập tràn hạnh phúc và tình yêu. Trong vở kịch ấy, tôi cứ lặp lại vai trò là cha mẹ và anh chị em, không bao giờ đặt câu hỏi sao điều này lại có thể xảy ra. Việc cứ thay đổi vai trò như vậy có thể có vẻ khó hiểu đối với những người khác, nhưng với tôi thì không.
“Những cô gái của tôi” biến mất khi tôi khoảng 12 tuổi. Tôi đã cố gắng đưa họ trở lại, nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra. Khi trưởng thành, tôi phải suy ngẫm về khả năng tuyệt vời của trẻ em trong việc tự an ủi thông qua trí tưởng tượng. Hoặc tôi cho rằng, cuối cùng tôi không còn cần họ nữa, nhưng tôi vẫn nhớ họ.
Tại thời điểm này, Louise không còn khả năng vẽ bằng dao phết màu nữa. Thay vào đó, được thúc đẩy bởi khát khao sáng tạo tiềm ẩn này, bà bắt đầu vẽ các cô gái bằng bàn tay mình. Một cách có ý thức, bà ấy nói rằng đã chuyển sang sử dụng các ngón tay vì bà thích cảm giác của màu sơn, thích việc lặp đi lặp lại tạo ra các “chấm màu” bằng ngón tay của mình. Giống như những giai điệu cứ lặp đi lặp lại trong đầu bà ấy, sự lặp đi lặp lại phát huy tác dụng của nó, ngay cả trong kỹ thuật của bà. Dù trong quá trình hay khi đã hoàn thành tác phẩm, bà ấy không chỉ được truyền cảm hứng mà còn bị hấp dẫn bởi chúng.
Căn bệnh của Louise vừa thúc đẩy những khả năng, vừa tạo ra những hạn chế trong nghệ thuật của bà
Hành động có nhận thức là hành động hợp lý với thế giới của chúng ta. Có lẽ việc Louise nhấn mạnh và biện minh cho sự thiếu kiểm soát về kỹ thuật của bà và những chấm nhỏ liên tục, là sự phản ánh thực tế rằng bà ấy thiếu khả năng kiểm soát hơn, cả về thể chất và tinh thần, đối với thế giới của mình. Mặt khác, bất kỳ phong cách nào cũng liên quan đến sự phối hợp giữa chức năng điều hành của nghệ sĩ và nhịp điệu tự nhiên (nhịp thở, nhịp tim, run) áp đặt những hạn chế hoặc lợi thế của riêng họ cho màn trình diễn. Sergei Rachmaninoff có thể sáng tác các bài hát mà chỉ anh mới có thể chơi được vì bàn tay to đến mức ngớ ngẩn của anh (có lẽ là dấu hiệu của một chứng rối loạn di truyền chẳng hạn như hội chứng Marfan). Các căn bệnh của Louise cũng tạo ra những khả năng và hạn chế trong nghệ thuật của cô: ảnh hưởng đến vị trí đặt tay, tốc độ và sự phối hợp của nó, cũng như mối quan hệ của nó với chính không gian mà bà định tô màu.
Quá trình phát triển của Louise từ cọ vẽ, đến dao phết màu, đến bàn tay, theo một nghĩa nào đó là một sự thụt lùi. Tuy nhiên, theo một cách khác, đó là một chuyến đi đến với hoạt động nghệ thuật sơ khai và thuần khiết. Trẻ em vẽ tranh bằng các ngón tay, và những gì tác phẩm của chúng thiếu trong cách miêu tả tự nhiên thì nó vượt trội ở tính biểu tượng nguyên thủy. Tại sao biểu tượng như vậy nên được sản xuất dễ dàng hơn khi công cụ là một bàn tay chứ không phải một cây cọ vẽ là điều hấp dẫn. Những gì chúng ta cảm thấy về thể chất / bên ngoài và những gì chúng ta cảm thấy về mặt tâm linh / bên trong dường như gần gũi hơn với việc vẽ bằng ngón tay. Khi đánh dấu bằng tay của một người, chính cơ thể con người trở thành công cụ để biểu đạt và công cụ đó là một bộ phận nhạy cảm. Xúc giác khác với các giác quan khác ở sự liền mạch của các quá trình cảm giác và vận động của nó. Chúng ta đút một đồng xu vào túi, và chuyển động đó tạo ra cảm giác, kích thích chuyển động thêm cho đến khi xác định được đối tượng mong muốn. Chúng ta cử động một chi để cảm nhận, và chuyển động đó là thứ kích thích xúc giác.
Nếu chúng ta nghĩ lại về lựa chọn sơn dầu của Louise, cô ấy thích ‘cảm nhận’ chúng theo xúc giác, nhưng cũng theo cảm giác trực quan trừu tượng hơn của thành phần tạo ra. Giờ đây, khi làm việc với màu sơn ở đầu ngón tay và đẩy nó trên mặt giấy, Louise gần như thực sự cảm nhận được một phương tiện hình ảnh, theo cả ý nghĩa động cơ và cảm xúc.
Đến năm 2018, ảo giác của Louise trở nên thường xuyên hơn, thẳng thắn và đáng sợ hơn. Những người đàn ông lạ ngồi trên chiếc ghế dài của cô, những cô con gái nhỏ đứng cùng cô dưới vòi hoa sen, và đôi khi những người bạn của chồng cô tham gia cùng hai vợ chồng ăn tối. Cô đã từng nhìn thấy ảo giác của chính mình, và đôi khi là bản sao của chính những đứa con của cô. Trong những năm sau đó, những thứ này trở thành đồ đạc cố định – một kiểu dàn dựng tinh thần ở đâu đó giữa hậu cảnh và tiền cảnh trong trường nhìn của cô. Chồng cô đã nghe cô nói với vẻ ngạc nhiên hoặc bực tức: “Không có ai ở đây cả!” Thật bất thường khi cô không bị ảo giác.
Sau The Girls, Louise bắt đầu một loạt dự định ban đầu là một bộ sưu tập các bức tranh tĩnh vật. Đầu tiên là hai phần được trừu tượng hóa có chủ đích – Từ Bóng tối đến Ánh sáng, chủ đề của bộ truyện. Đây là hai vụ nổ màu sắc hoang dã. Bức tranh tiếp theo là một chiếc bình đất nung mang một bó hoa trắng nhỏ li ti. Tuy nhiên, với mỗi nỗ lực liên tiếp để miêu tả cuộc sống tĩnh vật này, phong cách của Louise bắt đầu lỏng lẻo, sau đó gỡ rối hoàn toàn. Các tĩnh vật biến thành những mảng trừu tượng lộng lẫy trước khi bùng cháy thành những lưỡi ánh sáng vô định hình, quét qua một nền màu gỉ sét. Có lẽ Khung 1 và 2 được soạn thảo trong khoảng thời gian ‘bật’, thời điểm mà dopamine do Sinemet cung cấp lấn át các hạch cơ bản, dẫn đến chuyển động quá nhiều và tập trung quá nhiều đến mức làm việc quá sức – trong khi Khung 3 và 4 là sản phẩm của một liều Goldilocks, khi lượng dopamine vừa đủ thông qua Sinemet cho phép đủ phạm vi chuyển động nhưng cân bằng giữa sự chú ý và tự do biểu đạt. Tuy nhiên, các khung hình tiếp theo không thể được giải thích dễ dàng bằng sự dao động dopamine. Cách những bông hoa phát triển thành các dạng cá thể hóa của chúng, đồng thời tích lũy các đốm màu lấn sang phần còn lại của mảnh, cho đến cuối cùng hình thức bị gãy thành các dấu chấm nhỏ – điều đó có vẻ giống như bức tranh từ cuộc sống, một cuộc sống mà bạn không còn nữa có thể nhìn thấy rõ ràng.
Cùng với ảo giác, Louise bị sa vào ảo tưởng. Có một loạt từ ảo giác đến ảo tưởng, chuyển động từ nhận thức mà không có kích thích dẫn đến thụ thai mà không có lý do. Cô ấy nghĩ ai đó đang vào studio vẽ tranh của cô ấy. Cô chỉ vào một tấm vải đen tuyền để chứng minh điều đó – một tấm vải mà cô đã vẽ lại và bỏ quên. Cô ấy sẽ nhìn thấy mọi người trên cây hoặc nghe thấy những bữa tiệc ngoài bãi cỏ. Đây là trường hợp ngay cả khi họ không trực tiếp trong tầm mắt của cô ấy; và, sau khi nhận ra sự bất hợp lý của những ý tưởng này, Louise nói rằng cô vẫn cảm thấy chúng ở đó. Cảm giác thể hiện một trải nghiệm ở đâu đó giữa cảm giác và cảm giác.
Tôi không chỉ là một nhà thần kinh học hay chỉ là một học giả khoa học nhân văn, và Louise không chỉ là một bệnh nhân hay chỉ là một họa sĩ
Louise bây giờ thường xuyên vẽ lại các tác phẩm trước đây của mình, và dường như không biết đến sự thật là có bất cứ thứ gì ở đó để bắt đầu. Cô không còn có thể nhận ra công việc là của riêng mình. Vào năm 2020, nếu không có các dấu hiệu đầy đủ, cô ấy thường không nhận ra gia đình trong mặt nạ COVID-19. Một ngày nọ, chồng cô đang đứng trước TV, tay cầm cốc cà phê, xem cựu tổng thống Mỹ Barack Obama có bài phát biểu tại một cuộc mít tinh của Joe Biden. Louise nhìn vào màn hình, với chồng và cốc cà phê trên đường, và nói: ‘Ồ, xem này, Obama đang uống một tách cà phê.’ thế giới trở nên siêu sắc. Nước trong bồn rửa của cô ấy lấp lánh một màu xanh thiên thanh, và đôi khi cả thế giới của cô ấy được lọc qua một thấu kính nhuộm màu. Cô ấy đã không chọn màu sắc trong tác phẩm của mình dựa trên hiệu ứng thấu kính này, nhưng nó đã ảnh hưởng đến kỹ năng bố cục của cô ấy, vì đôi khi rất khó để phân biệt màu gì trên canvas và màu gì trong vỏ não của cô ấy.
Trong vài năm trở lại đây, Louise đã từ việc quên mất việc vẽ tác phẩm của mình sang việc xé bỏ nó một cách có ý thức. Không còn khả năng vẽ nữa, ngày càng không hài lòng với cách vẽ của mình, nhưng vẫn bắt buộc phải sáng tạo, cô bắt đầu cắt dán từ những mảnh vụn còn sót lại của tác phẩm trước đây của mình. Hiện cô cần sự trợ giúp thể chất từ một người bạn. Trong hơn 18 tháng, cô đã thực hiện được 10 bức ảnh ghép. Cô ấy phá hủy các bức tranh và phân loại các mảnh vụn, bạn của cô ấy ghim chúng vào một tấm bảng để Louise có thể xáo trộn các bức tranh cho đến khi cấu hình làm cô ấy hài lòng. Chương trình công khai cuối cùng của cô ấy là vào năm 2019: If You Could See What I See, trong đó cô ấy thể hiện, với sự giúp đỡ của David:
Tôi đã sắp xếp những mảnh vỡ được cắt ra từ những bức vẽ và bức tranh của cô ấy thành những bức ảnh ghép từ vô thức của tôi. Tôi đã thêm, bớt và sắp xếp lại các mảnh cho đến khi hình dạng và màu sắc xuất hiện nói với tôi – một hành động phá hủy sáng tạo… Trong khi hy vọng cải thiện, chúng tôi quyết định biến nghịch cảnh này [bệnh Parkinson và chứng mất trí nhớ] của cô ấy thành một cơ hội sáng tạo.
Công việc của Louise đã trở thành một hành động phá hủy sự sáng tạo. Giống như hành động chuyển đổi tri giác giữa một con vịt và một con thỏ trong ảo tưởng triết học, sự lựa chọn cái này phủ nhận cái kia. Nhưng việc Louise không có khả năng nhận thức ở một khả năng cũng không loại trừ khả năng nhìn của cô ấy theo những cách sáng tạo mới. Hệ thống hình ảnh tiếp tục được thúc đẩy để phục vụ một ý định. Bất chấp sự méo mó về thị giác và rối loạn trong suy nghĩ, thôi thúc nghệ thuật của cô – trực giác trải dài suốt con đường trở lại Stravinsky lộn ngược – đã thôi thúc cô sáng tạo, ngay cả khi sự sáng tạo đó phải trả giá bằng sự hủy diệt.
Nghệ thuật của Louise không thể tách rời căn bệnh của cô ấy, nhưng cũng không phải do nó quyết định. Trong ảnh ghép, một ý nghĩa biểu hiện như một tổng thể từ những mảnh vỡ và những ý tưởng rời rạc. Nhà sử học nghệ thuật David Rosand đã chỉ ra rằng tạo dấu ấn là tạo ra ý nghĩa. Vì vậy, bằng cách khám phá ý nghĩa công việc của Louise, chúng tôi trải nghiệm thế giới ý nghĩa của cô ấy.
Là một nhà thần kinh học, tôi có thể mô tả sự thiếu hụt của cô ấy và cố gắng khoanh vùng chúng, tìm ra nguồn gốc của sự nhầm lẫn của cô ấy trong các mạng não cụ thể. Nhưng cách tiếp cận ngắn gọn và đơn giản này đối với Louise cuối cùng là một bài học không có lợi trong việc giải phẫu thần kinh. Tương tự, một cách tiếp cận phê bình nghệ thuật thuần túy cuối cùng có thể tìm thấy một sự nghiệp tập trung vào kỹ thuật và sáng tác hơn là xuất sắc. Nhưng tôi không chỉ là một nhà thần kinh học hay chỉ một học giả khoa học nhân văn, và Louise không chỉ là một bệnh nhân hay chỉ là một họa sĩ. Chúng tôi là tổng thể những trải nghiệm của mình – không khác gì một bức ảnh ghép của cô ấy. Và quét các kỹ thuật khác nhau mà cô ấy sử dụng để điều chỉnh bức tranh của mình theo kinh nghiệm của mình, thay vì ngược lại, tôi hiểu rõ hơn rằng, mặc dù phong cách của cô ấy có thể bị ảnh hưởng bởi các triệu chứng của nó, nhưng khả năng vẽ của cô ấy vượt qua chúng.
Đáng buồn thay, Louise đã qua đời không lâu trước khi câu chuyện của cô được xuất bản. Tác giả mong muốn dành tặng tác phẩm cho Louise và chồng cô, David, những người đã chào đón anh vào cuộc sống của họ để chia sẻ một góc nhìn mới và phong phú hơn về ý nghĩa của tầm nhìn nghệ thuật.
Credit
—
Translated from website: aeon.co
Bản quyền bài dịch thuộc về Học viện nhiếp ảnh Quảng cáo Chimkudo.
Không được trích dẫn toàn bộ hay một phần khi chưa có sự đồng ý.